Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

Người đàn bà đẹp của vua Bảo Đại đã lưu lạc như thế nào trên đất Pháp?

(GDVN) - Đám tang Hoàng hậu Nam Phương thưa thớt, vắng vẻ, không tiếng khóc than, không lời ai điếu. Nấm mộ đơn sơ đặt trong nghĩa trang của nhà thờ ngay tại Chabrigna.


Vĩnh Thụy (sinh năm 1913) khi mới 8 tuổi đã trở thành Đông cung Hoàng thái tử, được Pasquier (nhiều năm làm Khâm sứ Trung Kỳ và Toàn quyền Đông Dương) đưa về Paris , giao cho Charles nuôi dưỡng. Sau 11 năm du học bên Pháp, Vĩnh Thụy trở lại quê nhà (trên chuyến tàu thủy chở khách bình thường) lên ngôi Hoàng đế Bảo Đại, ở tuổi 19. Vợ chồng Charles cũng về theo.
Trên chuyến tàu này có một nữ khách người Việt, cô Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan xinh đẹp, năm ấy vừa tròn 18 tuổi. Cô Lan sinh năm 1914 tại Sài Gòn nhưng mang quốc tịch Pháp, là con ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bính, cháu ngoại ông huyện Sĩ ở Nam Kỳ, một trong bốn người giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ 20. Gia đình cô Nguyễn Hữu Thị Lan theo đạo Thiên Chúa. Năm 14 tuổi, cô được gia đình gửi sang Pháp, học trường dòng Couvent des Oiseaux ở Paris. Cô trở về nước khi vừa học xong, đi cùng chuyến tàu với Vĩnh Thụy. Và lần đầu cô trông thấy Vĩnh Thụy là ở phòng ăn trên tàu.
Năm sau, dưới sự đạo diễn của người Pháp, Vĩnh Thụy và cô Lan hội ngộ. Họ bố trí cho Vĩnh Thụy và Toàn quyền Pasquier đến nghỉ mát ở núi Lâm Viên (Đà Lạt). Darles, đốc lý được giao nhiệm vụ tổ chức một buổi tiệc trà với lý do họp mặt giữa người Pháp và một số thân hào nổi tiếng ở miền Nam đang làm ăn tại cao nguyên này.
Hai mẹ con cô Lan và anh ruột bà Lê Thị Bính, ông Denis Lê Phát An, từ Sài Gòn lên đây nghỉ mát từ vài hôm trước, cũng được gửi thiếp mời tới dự tiệc trà. Nể lời cậu, cô Lan đi dự nhưng không trang điểm, chỉ mặc áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp. Trong buổi tiệc ấy, khi ông Darles đưa "ông cậu và cô cháu gái" đến giới thiệu, vị Hoàng đế đã bị chinh phục, nhìn cô không chớp mắt

Sau bữa tiệc, Vĩnh Thụy trở lại Huế bẩm với bà Hoàng Thái hậu Từ Cung Hoàng Thị Cúc về chuyện gặp cô Lan và những dự định sẽ làm. Bà Cúc tỏ ra lo lắng, nét mặt u buồn, bởi cô Lan đi đạo, lớn lên ở Châu Âu, không phải sống trong khuôn phép lễ giáo Việt Nam. Lại còn chuyện giáo dục con cái về tôn giáo, khi chúng lớn lên, được phong Hoàng Thái tử thì làm sao cử hành được việc thờ cúng liệt thánh hay lễ tế đàn Nam Giao? Không phải chỉ trong hoàng tộc và đình thần, cả trong dân chúng đều lo lắng, bàn tán xôn xao.


Vĩnh Thụy vẫn bất chấp, hôn lễ được cử hành vào ngày 20/3/1934, trước sự hiện diện của đình thần và đại diện nước Pháp, tại điện Cần Chánh. Triều đình đứng thành hàng dọc theo tấm thảm hai màu vàng, đỏ dành riêng cho Hoàng đế. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà Nguyễn, có một phụ nữ xuất hiện giữa triều đình.

Bà Nam Phương, tên trị vì do Bảo Đại đặt, có nghĩa “Người con gái phương Nam”, mặc áo thụng, chân đi hài mũi cong, đầu đội vương miện đính 9 con phượng bằng vàng thật và nhiều ngọc châu óng ánh. Bà đi đến giữa tấm thảm, cả triều đình vái chào. Với một vẻ đẹp lộng lẫy, bà đi thẳng vào phòng lớn giữa lúc nhà vua đang ngồi trên ngai thấp ở đó. Hôn lễ ngắn gọn, đơn giản. Hoàng đế và Hoàng hậu sánh vai bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử Cấm Thành vào điện Kiến Trung, nơi ở và làm việc chính.


Bảo Đại và Nam Phương hoàng hậu có với nhau 5 người con. Nhưng cuộc sống hạnh phúc của 2 người không kéo dài bao lâu. Bởi Bảo Đại là vị vua trăng hoa, không những liên tục tìm kiếm những cô gái xinh đẹp mà còn cặp bồ với rất nhiều cô gái khác, Tây có, ta có. Một lần, Nam Phương Hoàng hậu đã lái xe, mang theo súng định bắn gục tình nhân của Bảo Đại ở Đà Lạt.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị cùng gia đình rời khỏi Đại Nội, tới ở cung An Định, bên bờ sông An Cựu. Thời gian sau, trong bối cảnh nhà Nguyễn đã suy vong, bà Nam Phương sang Pháp sống những năm tháng cuối đời. Bà chọn Chabrignac, một làng quê trải dài trên vùng đồi có những mái nhà xám. Trên khu đất rộng 160 mẫu, bà xây một biệt thự bằng đá cẩm thạch ở giữa đồi, nuôi một đàn bò sữa ngót trăm con. Giữa đất khách, bà sống ẩn dật trong yên tĩnh với một tài sản chẳng ai bằng. Ngoài 2 chung cư lớn ở Neuilly và đại lộ Opéra (Paris), bà còn sở hữu nhiều nhà đất ở các nước Maroc, Congo, cùng nhiều ngọc ngà, châu báu.

Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng sống thiếu hạnh phúc. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng hậu mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của Phương Liên (con gái của bà với vua Bảo Đại) kết hôn với chàng trai Bordelais. Buồn nản vì tình cảm của mình, bà Nam Phương chỉ sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn, bà mới về thăm Paris vài ngày. Có lẽ vui nhất là dịp nghỉ hè, các con  về thăm bà.


Một lần, sau chuyến đi chơi về, bà thấy đau cổ. Bác sĩ tới thăm bệnh, nói bà bị viêm họng nhẹ. Không ngờ sau đó, bà bị khó thở. Ông quản gia và mấy cô giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây số. Nhưng bà càng khó thở hơn và trái tim bà đã ngừng đập ở tuổi 49. Đó là ngày 14/9/1963.

Trong giờ phút lâm chung, ngoài những người giúp việc, bên cạnh bà không có một người thân. Đến viếng bà là những người có mối quan hệ gần gũi như công chúa Như Lý, con gái Vua Hàm Nghi, và vài viên chức thuở xưa làm việc với cựu hoàng Bảo Đại, ông tỉnh trưởng Pháp cùng mấy vị dân biểu. Báo chí Việt Nam tới hàng chục năm sau vẫn không biết hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn mất bao giờ.

Đám tang bà hoàng hậu thưa thớt, vắng vẻ, không tiếng khóc than, không lời ai điếu. Nấm mộ đơn sơ đặt trong nghĩa trang của nhà thờ ngay tại Chabrignac, kém cả những ngôi mộ xây đủ hình khối ở ngay bên cạnh. Người tới thăm viếng có thể nhìn tấm bia, mặt trước ghi mấy dòng tiếng Pháp: Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan. Mặt sau tấm bia khắc dòng chữ Hán: “Đại Nam Nam Phương Hoàng hậu chi mộ” (mộ phần bà Hoàng hậu Nam Phương của nước Đại Nam ).

Theo giaoduc.net.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét